Liệu
các đối thủ cạnh tranh của công ty có thể thực hiện được chiến lược của mình và
đạt được những mục đích của họ không? Điều đó còn tuỳ thuộc vào các nguồn tài
nguyên và năng lực của từng đối thủ cạnh tranh. Công ty cần phát hiện những mặt
mạnh và những mặt yếu của từng đối thủ cạnh tranh. Bước đầu tiên là công ty
phải thu thập những số liệu mới về tình hình kinh doanh của từng đối thủ cạnh
tranh cụ thể là mức tiêu thụ, thị phần, mức lời, lợi nhuận trên vốn đầu tư, lưu
kim, đầu tư mới, và mức sử dụng năng lực. Có một số thông tin sẽ rất khó kiếm.
Ví dụ, các công ty tư liệu sản xuất thấy rất khó ước tính thị phần của đối thủ
cạnh tranh, bởi vì họ không có dịch vụ cung cấp số liệu như trong trường hợp
của những công ty hàng tiêu dùng đóng gói. Tuy vậy, bất kỳ thông tin nào cũng
giúp họ đánh giá tốt hơn các mặt mạnh và các mặt yếu của từng đối thủ cạnh
tranh. Loại thông tin này đã giúp công ty quyết định tiến công ai trên thị
trường có thể lặp chương trình kiểm soát:
Một
công ty đã quyết định tham gia thị trường có thể lập chương trình kiểm soát. Nó
đã phải đương đầu với ba đối thủ cạnh tranh đã cố thủ vững chắc là Allen
Bradley, Texas Instruments và Gould. Kết quả nghiên cứu của công ty cho thấy
rằng, Allen Bradley đã có danh tiếng lừng lẫy về vị trí dẫn đầu trong công
nghệ. Texas Instruments có chi phí thấp và đã tham gia những trận đánh đẫm máu
để giành thị phần; Còn Gould thì hoạt động tốt, nhưng không có gì xuất sắc.
Công ty đi đến kết luận là Gould là mục tiêu tốt nhất của mình.
Các
công ty thường tìm hiểu những mặt mạnh và mặt yếu của các đối thủ cạnh tranh
thông qua những số liệu thứ cấp, kinh nghiệm cá nhân và lời đồn. Họ có thể bổ
sung thêm sự hiểu biết của mình bằng cách tiến hành nghiên cứu Marketing trực
tiếp với các khách hàng, người cung ứng và đại lý của mình. Ngày càng có nhiều
công ty quay sang dùng phương pháp lấy chuẩn (benchmarking) như một sự chỉ dẫn
tốt nhất để cải thiện vị thế cạnh tranh của mình (xem khái niệm và công cụ
Marketing trong bảng 6-2 dưới đây).
Bảng
6-2 trình bày những kết quả của một công ty khi yêu cầu khách hàng đánh giá ba
đối thủ cạnh tranh của mình A, B và C, theo năm tính chất. Đối thủ cạnh tranh A
hóa ra được xem nổi tiếng là một công ty sản xuất sản phẩm chất lượng cao và có
một lực lượng bán hàng giỏi để tiêu thụ chúng. Tuy nhiên, đối thủ A còn yếu về
mặt đảm bảo phân phối hàng rộng khắp và hỗ trợ kỹ thuật. Đối thủ B có ban lãnh
đạo giỏi và đảm bảo phân phối sản phẩm rộng khắp và hỗ trợ kỹ thuật. Đối thủ B
có ban lãnh đạo giỏi và đảm bảo phân phối sản phẩm rộng khắp với lực lượng bán
hàng tuyệt vời. Đối thủ C được đánh giá là yếu kém về hầu hết các tính chất.
Thông tin này gợi ý là công ty của ta có thể tấn công đối thủ A về mặt phân
phối sản phẩm và hỗ trợ kỹ thuật và đối thủ C về hầu hết các mặt, nhưng đối thủ
B thì không có mặt yếu rõ rệt nào.
Các kết
qủa nghiên cứu được tổng kết trong bảng 6-2 cần được mở rộng thêm. Thứ nhất là
cũng cần đánh giá những mặt mạnh và yếu của bản thân công ty. Thứ hai là các ô
đánh giá cần thể hiện chi tiết hơn. Hiển nhiên là không phải mọi người đều nghĩ
đối thủ B có chất lượng tốt. Kết quả thực ra có thể là 20% cho là tuyệt vời,
40% cho là tốt, 30% cho là bình thường và 10% cho là kém. Cũng nên biết loại
khách hàng nào không tán thành với quan điểm chung về chất lượng sản phẩm của
đối thủ cạnh tranh B. Thứ ba là khách hàng cũng cần đánh giá các biến khác, như
giá, chất lượng quản trị và năng lực sản xuất.
Còn ba biến nữa mà mọi công ty cần theo dõi là:
+ Thị
phần: Phần khối lượng bán ra của đối thủ cạnh tranh trên thị trường mục tiêu.
+ Phần
tâm trí: Tỷ lệ phần trăm khách hàng nêu tên đối thủ cạnh tranh khi trả lời câu
"Hãy nêu tên công ty đầu tiên nảy ra trong đầu bạn khi nghĩ đến ngành
này".
+ Phần
trái tim: Tỷ lệ phần trăm khách hàng nêu tên đối thủ cạnh tranh khi trả lời câu
"Hãy nêu tên công ty mà bạn thích mua sản phẩm của họ".
|
Mức
độ biết đến của khách hàng
|
Chất
lượng
sản phẩm |
Phân
phối
sản phẩm |
Hỗ
trợ kỹ thuật
|
Đội
ngũ bán hàng
|
Đối
thủ cạnh tranh A
|
E
|
E
|
P
|
P
|
G
|
Đối
thủ cạnh tranh B
|
G
|
G
|
E
|
G
|
E
|
Đối
thủ cạnh tranh C
|
F
|
P
|
G
|
F
|
F
|
Bảng 6-2. Kết quả đánh
giá của khách hàng
về những yếu tố thành
công chủ chốt của các đối thủ cạnh tranh
Chú
thích: E = Tuyệt vời, G = tốt, F = bình thường, P = kém
Giữa ba
số đo này có một mối quan hệ đáng chú ý. Bảng 6-3 trình bày những số liệu về ba
đối thủ cạnh tranh nêu ở bảng 6-2. Đối thủ A có thị phần cao nhất, nhưng nó
đang giảm dần. Sở dĩ như vậy, một phần cũng là vì phần tâm trí và phần trái tim
của đối thủ đó cũng đang giảm. Mức độ biết đến và ưa thích của khách hàng giảm
sút là điều chắc chắn, bởi vì đối thủ A, mặc dù cung cấp sản phẩm tốt, nhưng
không đảm bảo phân phối sản phẩm tốt và hỗ trợ kỹ thuật tồi. Mặt khác, đối thủ
cạnh tranh B đang giành thêm được thị phần một cách vững chắc và điều đó chắc
chắn là nhờ chiến lược tăng phần tâm trí và phần trái tim của họ. Đối thủ cạnh
tranh C xem ra có vẻ là kẹt ở mức thị phần thấp, phần tâm trí và phần trái tim
cũng thấp, vì sản phẩm và những tính năng Marketing của họ đều kém. Ta có thể
khái quát hóa như sau: Những công ty nào giành được phần tâm trí và phần trái
tim một cách vững chắc thì chắc chắn sẽ giành ddược thị phần và khả năng sinh
lời lớn hơn. Như vậy điều quan trọng không phải là trong một năm cụ thể nào đó
công ty đó kiếm được nhiều hay ít lợi nhuận (có quá nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
chỉ tiêu này), mà là công ty đó có tạo lập được vững chắc mức độ biết đến của
khách hàng và mức độ ưa chuộng của khách hàng theo thời gian hay không.
.
|
Thị phần
|
Phần
tâm trí
|
Phần
trái tim
|
||||||
|
1991
|
1992
|
1993
|
1991
|
1992
|
1993
|
1991
|
1992
|
1993
|
Đối
thủ cạnh tranh A
|
50%
|
47%
|
44%
|
60%
|
58%
|
54%
|
45%
|
42%
|
39%
|
Đối
thủ cạnh tranh B
|
30%
|
34%
|
37%
|
30%
|
31%
|
35%
|
44%
|
47%
|
53%
|
Đối
thủ cạnh tranh C
|
20%
|
19%
|
19%
|
10%
|
11%
|
11%
|
11%
|
11%
|
11%
|
Bảng 6-3. Thị phần, phần tâm trí và phần trái tim
Cuối
cùng, khi tìm hiểu các mặt yếu kém của các đối thủ cạnh tranh, ta cần phát hiện
mọi giả thiết mà họ đặt ra về công việc kinh doanh của mình và thị trường không
còn có giá trị đối với họ. Một số công ty cứ tin chắc rằng minh sản xuất ra
chất lượng tốt nhất trong ngành khi mà điều đó không còn đúng nữa. Nhiều công
ty là nạn nhân của những quan niệm chung như "công ty đầy đủ chủng loại
được khách hàng ưa thích", "lực lượng bán hàng là công cụ Marketing
quan trọng duy nhất", "khách hàng coi trọng dịch vụ hơn giá cả".
Nếu ta biết rằng có một đối thủ cạnh tranh đang hoạt động theo một giả thiết
sai trầm trọng, thì ta có thể giành được ưu thế đối với họ.