Home » , » Chè và văn hoá trà - Phần 6: Trà trong thế giới hiện đại

Chè và văn hoá trà - Phần 6: Trà trong thế giới hiện đại

Thanh Do | 14:02 | 0 nhận xét
6. Trà trong thế giới hiện đại


Cho đến nay trà vẫn được xem là một trong những thức uống tốt nhất được cả thế giới công nhận.

Ở phương Tây người ta sáng tạo ra cách uống trà (trà đen, tức Hồng trà) pha kèm với đường, sữa tươi, hay mật ong.

Dân Trung Đông lại còn cho thêm những gia vị khác như quế, hồi, gừng, v.v. vào trà. Có lẽ do Trung Đông quá nóng, nên dân xứ này không thể chống nóng bằng cách uống trà đá, mà phải dùng cách “lấy độc trị độc”, uống trà nóng pha với gia vị nóng để cân bằng trong-ngoài (cũng như trong khi ta chống nóng bằng cách mặc thoáng mát thì họ che kín toàn thân bằng nhiều lớp quần áo thật dày).


Ngày nay, việc uống trà đang biến hóa muôn hình muôn vẻ để đáp ứng những nhu cầu vô cùng đa dạng của một xã hội công nghiệp khi con người luôn sôi động, hối hả.

Về nguyên liệu, trà ngày nay có thể được pha trộn với các hương liệu như dâu, cam, táo, nho, chanh,.. tạo nên sự phong phú về hương vị. Về hình thức, ngoài dạng trà rời ngâm trong nước sôi, có trà túi lọc như Lipton, Dilma, trà hòa tan; nước trà có thể được đóng lon. Các sản phẩm có sử dụng chè làm hương liệu cũng rất nhiều: người ta có thể trộn bột trà với các nguyên liệu cần thiết để làm bánh ngọt, làm kem, làm các món ăn; hay cũng có thể dùng chế tạo kem dưỡng da, kem đánh răng,…

Tuy nhiên, trong đó hình thức tồn tại chủ yếu của trà phù hợp với xã hội công nghiệp là trà hòa tan (còn gọi là trà hòa tan nhanh hay trà tinh thể). Trà hòa tan bắt đầu xuất hiện từ năm 1959 ở Thụy Sĩ, rồi đến Mỹ... Ưu điểm của loại trà này là hòa tan rất nhanh, không để lại cặn, cách làm đơn giản.

Để chế biến loại trà này, đầu tiên người ta chuẩn bị nguyên liệu cũng giống như làm trà đen hay trà xanh. Sau đó các chất hòa tan được chiết bằng nước nóng. Người ta cũng dùng chất xúc tác (kali pecmanganat, tỉ lệ 0,05%) để tăng cường quá trình ôxy hóa. Nước chiết được đem lọc rồi cô trong chân không, có thể trộn cùng với đường và các chất thơm khác như cao chanh, cao cam, cao táo… nếu muốn có thêm hương vị, sau đó dùng máy phun sương hay máy đông khô để chế ra bột trà hòa tan, hoặc nén thành viên.

Ngày nay, mỗi năm thế giới chế biến khoảng 3 triệu tấn và tiêu thụ khoảng 900 tỉ chén trà. Toàn thế giới hiện có trên 40 nước trồng trà, chủ yếu tập trung ở các nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Srilanka, Bangladesh, Pakistan, Iran, Việt Nam, Korea, Nhật Bản, Đài Loan, Indonesia, Nepal... Ngoài Châu Á ra thì Kenya ở châu Phi, Argentia ở châu Mỹ và Úc cũng là những nước sản xuất nhiều trà. Trà của Srilanka và Đài Loan hiện nay vẫn  được mang tên “Ceylon” như một thương hiệu đặc biệt. Theo Hiệp hội chè Việt Nam thì Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới về diện tích trồng chè và đứng thứ 8 về sản lượng chè[xv].

Sản lượng chè thế giới

Thế nhưng, cho dù xã hội có tốc độ, hối hả đến đâu thì cái bản chất của trà và các yếu tố quan trọng để thưởng thức trà vẫn là sự thanh tĩnh, thư thái, bên cạnh người tâm giao. Chén trà chung rượu vẫn là cái giá trị phản ảnh bản chất của nền văn hóa nông nghiệp giành riêng cho người biết thưởng thức.



Kết luận

Trong mọi thức uống, thì trà là thức uống phổ biến nhất. Thoạt đầu với tác dụng giải khát, dần dần phổ biến rộng rãi, sau được nâng lên thành nghệ thuật tao nhã, một biểu hiện văn hóa của con người khi thưởng thức nó. Trà theo bước con người đi khắp mọi nơi, đi vào các tầng lớp xã hội của mọi dân tộc, trở thành thức uống đặc biệt ưa thích của thế giới. Trà đem lại cho con người nhiều cảm xúc thanh cao, những phút thi vị của cuộc đời.

Trà là một phương tiện quan trọng trong việc liên kết con người với con người. Biết bao tình bạn thắm thiết từng có sự góp mặt của chén trà ly rượu. Thưởng thức trà là một nghệ thuật tao nhã của văn nhân mặc khách. Có người uống trà để cảm nhận triết lý của cuộc sống. Có người nhấm chén trà để ưu thời mẫn thế. Những bậc thiền sư, cao tăng, đạo sĩ ẩn dật thưởng thức trà để thấu hiểu cội nguồn con đường giải thoát. Người phương Đông đã thực sự đạt được sự hài hòa cân đối trong tâm hồn khi uống trà. Có bạn tri kỷ đàm đạo bên bình trà ngon, nhấp từng ngụm trà mà suy tư, mượn chén trà mà tâm tình với bạn. Trước chén trà, thời gian như ngừng trôi, mọi việc thế sự chỉ còn như mây khói.

Xuất phát từ phương Đông, nhưng trà đã biến hoá theo sở thích, thói quen từng dân tộc, từng con người thưởng thức nó. Trà chẳng những mang nét văn hóa trang nhã độc đáo của Phương Đông mà còn mang cả cốt cách của phương Tây. Trà đi cùng con người vào xã hội hiện đại.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.       BNS Thuốc 1998: BNS Thuốc và sức khỏe, số 126, tháng 10.

2.       Đặng Hanh Khôi 1983: Chè và công dụng. - NXB Khoa học Kĩ thuật, 110 tr.

3.       Đỗ Ngọc Quỹ 1999a: Cây chè cổ ở miền núi Bắc Việt Nam. - Tạp chí Xưa và Nay, số 60, tháng 2/1999, tr.19-21.

4.       Đỗ Ngọc Quỹ 1999b: Ẩm trà ca - bài thơ cổ hơn nghìn năm. - Tạp chí Xưa và Nay, số 61, tháng 3/1999, tr. 39-40.

5.        Đỗ Ngọc Quỹ 2003: Bản sắc văn hóa chè Việt Nam. - Tạp chí Xưa và Nay, số 140, tháng 5/2003, tr. 38- 39.

6.        Đỗ Ngọc Quỹ 2006: Trà từ châu Á sang châu Âu. - Tạp chí Xưa và Nay, số 257, tháng 4-2006, tr. 31-32.

7.       Đỗ Tất Lợi 2006: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. - NXB Y học (tái bản, NXB Khoa học - Kỹ thuật xuất bản lần đầu năm 1977).

8.       Đường Đắc Dương (cb) 2003: Cội nguồn văn hóa Trung Hoa (người dịch: Nguyễn Thị Thu Hiền). - NXB Hội nhà văn, 1261 tr.

9.       HHQT về TTGD 1993: Nhật Bản ngày nay. - Hiệp hội quốc tế về thông tin giáo dục xuất bản, 157 tr.

10.   Hoàng Anh Sướng 2002: Nghệ thuật thưởng trà Hà Nội. - Tạp chí Văn hiến, Tết Nhâm Ngọ, tr.37-38.

11.   Ienaga Saburou 2003: Văn hóa sử Nhật Bản (Lê Ngọc Thảo dịch). - NXB Mũi Cà Mau, 195 tr.

12.   Kondansha International 1994: Japan - profile of a nation. - Kondasha International, 358 pages.

13.   Lâm Ngữ Đường 1937: Sống đẹp (Lin Yutang. The Importance of Living, bản tiếng Việt của Nguyễn Hiến Lê).

14.   Lê Tắc 2001: An Nam chí lược. - NXB Thuận Hóa - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

15.   Mạnh Thị Thanh Nga 2001: Nguồn gốc của tục uống trà và sự du nhập vào Nhật Bản. - tạp chí Văn hóa dân gian, số 1 (73)/2001, tr.67-72.

16.    N.H. 2002: Những bí mật về cây chè Trung Quốc đã bị đánh cắp như thế nào? - Tạp chí Xưa và Nay, số 121, 8/2002, tr.22-24.

17.   NTNN 2005: Công dụng bã trà. - Nông thôn ngày nay, số 255, ngày 23-12.

18.   Nguyễn Duy Chính 2002: Đọc Kim Dung tìm hiểu văn hóa Trung Quốc. – TpHCM, Nhà xuất bản Trẻ.

19.   Nguyễn Tuân 2000: Vang bóng một thời. - NXB Đồng Nai, 159 tr.

20.   Nguyễn Trãi 1980: Thơ văn Nguyễn Trãi (tuyển). - NXB Văn học, tr.136 (bài 34 (86))

21.   Nguyễn Văn Kim 2003: Nhật Bản với châu Á- những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế- xã hội. - NXB ĐHQG Hà Nội, tr.32 và tr.138.

22.   Nguyễn Văn Minh 1969: Dược tính chỉ nam. – SG. (tái bản 2001: Nxb. Hải Phòng).

23.    Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu 1970: Đất lề quê thói. - Sài Gòn, Cơ sở ấn loát Đường Sáng, tr.132-135.

24.    Okakura Kakuzo 1967: Trà đạo (The book of tea, Bảo Sơn dịch). - Sài Gòn, Lá Bối xuất bản, 139 tr. (bản tiếng Anh có tại ftp://ibiblio.org/pub/docs/books/gutenberg/etext97/tboft10.txt

25.   Park J.J. et al. 1999: Park Jeannie J., Park Edward J., Chwe Sylvia R., Hàn Quốc xin chào bạn (dịch từ tiếng Anh: Hello from Korea, in lần thứ 4). – Cục Thông tin Hàn Quốc (Korean Information Service) xuất bản. 120 tr.

26.   Pronikov V. - Ladanov I. 2004: Người Nhật. - NXB Tổng hợp tp HCM, 323 tr.

27.   Tổng Sách Hoạch - Lý Bính Khôn 1999: Trà- rượu trị bách bệnh (người dịch P. Kim Long). - NXB Đồng Nai, 668 tr.

28.   Trần Ngọc Thêm 1997: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. - NXB tp HCM, 680 tr.

29.   Trần Ngọc Thêm 2001: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. - Nhà xuất bản TP.HCM.

30.   Trần Quốc Vượng 2000: Văn hóa chè- đôi nét phác họa. - Tạp chí Tia sáng, số 1, tr.30- 32

31.   Trịnh Huy Hóa (biên dịch) 2003: Nhật Bản (trong tủ sách “Đối thoại với các nền văn hóa”). – TpHCM, NXB Trẻ, 171 tr.

32.   VHDG: Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4/1986, số 3/1989, số 4/1998, số 5/2001, số 1/2003.

33.   Vụ đào tạo Bộ NN 1979: Giáo trình cây chè. - NXB Nông nghiệp, 89 tr.

34.   Vương Hồng Sển 1993: Khảo về đồ sứ men lam Huế. - NXB tp HCM, quyển thượng : 291 tr.; quyển hạ: 270 tr.

35.   Vương Tùng Nhân 2004: Trà - văn hóa đặc sắc Trung Hoa (bản dịch của Đông A Sáng). - NXB Văn hóa thông tin, 238 tr.

36.   Vương Xuân Tình 2004: Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc, NXB KHXH, tr.101-104.

37.   Yun Seo-Seok 1993: Lịch sử văn hoá ẩm thực Korea (nguyên bản: History of Korean Dietary Culture, Koreana, vol. 7, No. 3, Autumn 1993). // Trong: “Tiếp cận văn hoá Hàn Quốc (Đặng Văn Lung chủ biên). – H.: NXB Văn hoá - Thông tin, 2002, tr. 327-340.



C. Tài liệu internet

1.       Tú Trúc 2004: Chuyện những danh trà Trung Quốc,   http://www.vnn.vn/vanhoa/nghexemdocchoi/2004/05/110668/

2.       Minh Nguyên 2004: Săn tìm ấm cổ, http://www.vnn.vn/vanhoa/nghexemdocchoi/2004/09/257912/ - 19 Kb

3.    Báo Thanh niên điện tử: Nghệ thuật gốm trà Việt Nam, http://thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/4/4/77475.tno?SearchTerm=trà

4.       Nguyễn Duy Chính, Trà tàu và ấm Nghi Hưng, http://www.dactrung.net/baiviet/noidung.aspx?BaiID=9A88OPgYskVYDXYJYSX%2fEA%3d%3d


6.       vtv.vn: Chén trà trong văn hóa m thc, 17/6/2005, http://www.vtv.vn/vi-VN/doisong/2005/6/55127.vtv

7.       Thời báo điện tử kinh tế Việt Nam (25/7/2005): Tìm lối ra cho ngành chè, http://www.vneconomy.com.vn/vie/index.php?param=article&catid=198&id=77cde23fc74393

8.       Wikipedia: http://en.wikipedia.org/wiki/tea





[i] “Trà nhân truyền”, 1979, Kondasha, tr.12 [dẫn theo Mạnh Thị Thanh Nga 2001: 67].

[ii] http://www.vnn.vn/vanhoa/nghexemdocchoi/2004/05/110668/

[iii] Có ý kiến cho rằng Trà đạo, tiếng Hàn gọi là chado /차도 = 茶道, là từ Korea đi sang Nhật Bản và trở nên nổi tiếng ở đây [Parks J.J. et al. 1999: 120].

[iv] Theo Nguyễn Duy Chính trong “Trà tàu và ấm Nghi Hưng”, http://www.dactrung.net/baiviet/noidung.aspx?BaiID=9A88OPgYskVYDXYJYSX%2fEA%3d%3d

[v] Nguyễn Duy Chính. Đọc Kim Dung Tìm Hiểu Văn Hóa Trung Quốc, tr.247.

[vi] Theo bài Cuc sng Nht Bn đăng trên tạp chí “La vie au Japon” số 18-E7, tháng 3-1962 [Vương Hồng Sển 1993: 38-43].

[vii] [Nguyễn Văn Kim 2003: 138; Nghệ thuật gốm trà Việt Nam

[viii] Theo ý kiến của Trần Thanh Đạm, các chén trà trên cho phép khẳng định nghệ thuật dùng chén trà và thú uống trà của ta đã có từ lâu và không bắt nguồn từ văn hóa Hán  (bởi chất liệu các chén trà đó hoàn toàn khác với chất liệu gốm- thời Hán, Lục, Triều, Đường;  đồ celadon- đồ Long toàn nặn bằng bột đá trộn cao lanh- thời Bắc Tống, Nam Tống và tiền bán Minh) và đồ sứ (men trắng vẽ chàm) – đời hậu bán Minh và đời Thanh. Tuy nhiên theo ý kiến của Vương Hồng Sển thì  những chén trà này là do người Tàu di cư (sau khi quân Nguyên xâm lược Trung Hoa- đời Nam Tống)  đến Thanh Hóa làm, nên mang ảnh hưởng của dân bản xứ [Vương Hồng Sển, quyển thượng, 1993: 199-200].

[ix] Nghệ thuật gốm trà Việt Nam, http://thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/4/4/77475.tno?SearchTerm=trà

[x] Bài “Chén trà trong văn hóa m thc” đăng trên Website ca Đài truyn hình Vit Nam, 17/6/2005, http://www.vtv.vn/vi-VN/doisong/2005/6/55127.vtv

[xi] Theo G.Braux, Louvel và Bonifacy tại Hà Giang chè được bán phổ biến với tên gọi chè Bn Xang gồm hai loại: Loại thứ nhất là chè Bản Xang và loại thứ hai là chè San Nhân bán cho vùng Bắc kỳ và Nam kỳ. Năm 1911 theo số liệu thuế quan đã có 79.740 kg chè ở chợ Hà Giang bán xuôi sông Hồng. Trung tâm vùng chè này là của người Dao, Tả Pan và Lan Tiền, người Tày, La Chí và Hmông, sản xuất tại Bản Xang (Tùng Vài trên cao nguyên Quản Bạ) giữa Sì Lồ Phìn và Cao Má Pờ; ngoài ra còn có các xã Yên Bình , Ngô Khê, Nghĩa Phi và Phương Độ, Đại Miện (Vị Xuyên). [Trong Le thé de Ban Xang dans le Tonkin, BEID, 1904, dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ 1999: 19].

[xii] Ông bàn đến cách người Tàu uống trà như sau:“.. Đến đời Tống mới bày ra đồ chè ấm chén, hỏa lò, cấp thiêu, đại khái cũng là những đồ để pha nước uống chè.. Từ đời Minh đời Thanh trở xuống, cách chế chè càng tinh, cách dùng chè càng đủ, những các thứ chè bồi sao chế hóa cũng khéo, và những các thứ hồ ấm, dĩa chén, than lửa hỏa lò, cấp thiêu đều sắm sửa lịch sự cả, nào là chè Võ Di, lò Thành Hóa, ấm Dương Tiễn, đều là những thứ tuyệt phẩm dùng để pha chè..
Từ đời Khang Hy (1662-1722) trở về sau, cách uống chè tàu mới đổi ra cách pha từng chén nhỏ chứ không hãm từng ấm to, vì cách uống chè thì chén ấm phải cốt cho nhỏ và mỏng, để khi pha chè nó mới nổi mùi hương vị; vòi ấm rót cho thẳng thì nước nó không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén nó không nghiêng, rế lò dày mà lỗ thưa thì than lửa nó không bốc nóng lên quá, lòng ấm siêu lồi lên mà mỏng thì hỏa khí dễ thấu lên mà chóng sôi. Aáy cái cách chế bàn chè uống nước lúc mới còn thô sau tinh dần mãi ra” Nam Phong, số 122, tháng 10 năm 1927, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch [dẫn theo Vương Hồng Sển, 1993, Khảo về đồ sứ men lam Huế, quyển hạ, tr. 251-253]

[xiii] Nam Phong, số 122, tháng 10 năm 1927, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch [dẫn theo Vương Hồng Sển, 1993, q. hạ, tr. 251-253].

[xiv] Theo Dương Trung Quốc 2005: Hàng Buồm có một ngôi nhà. - http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=16234&;ChannelID=7
[xv] http://www.vneconomy.com.vn/vie/index.php?param=article&catid=19&id=77cde23fc74393

Trích đăng bài viết của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm
Share this article :
 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2014. Đỗ Duy Thanh - Today is a Gift! - All Rights Reserved
Template Modify by Creating Website
Proudly powered by Blogger